DINH DƯỠNG VÀ SỨC KHỎE

Vi chất dinh dưỡng và sức khỏe

Vi chất dinh dưỡng có vai trò quan trọng trong việc tham gia xây dựng các mô, tế bào, hệ thống miễn dịch của cơ thể và tham gia vào các hoạt động như hô hấp, chuyển hóa, bài tiết của tế bào cùng nhiều hoạt động khác của các cơ quan trong cơ thể. Vi chất dinh dưỡng còn tham gia duy trì sự cân bằng của hệ thống nội môi, giúp phục hồi các tế bào, các mô bị tổn thương và là thành phần chủ yếu để cơ thể sản xuất các enzyme, hormone và những chất cần thiết khác cho sự tăng trưởng và phát triển của cơ thể.
Tuy cơ thể chỉ cần với một lượng nhỏ vi chất dinh dưỡng nhưng khi thiếu những vi chất này sẽ gây rất nhiều hậu quả trầm trọng. Thiếu vi chất dinh dưỡng được xem là “nạn đói tiềm ẩn” ảnh hưởng đến mọi lứa tuổi đồng thời là nguy cơ đối với sức khỏe của trẻ em, phụ nữ mang thai, phụ nữ tuổi sinh đẻ. Thiếu vi chất dinh dưỡng sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe, trí tuệ, khả năng sinh sản và lao động của người lớn, cản trở sự tăng trưởng và phát triển toàn diện của trẻ em. Thiếu vi chất dinh dưỡng không chỉ gây ra một số bệnh đặc hiệu như bệnh khô mắt, mù lòa do thiếu vitamin A, bệnh thiếu máu do thiếu sắt, bệnh bướu cổ và đần độn do thiếu iốt, bệnh còi xương ở trẻ em, loãng xương ở người lớn tuổi mà còn là những yếu tố nguy cơ làm nặng thêm tình trạng nhiễm trùng và bệnh mãn tính, tác động đáng kể đến tình hình bệnh tật, tử vong và chất lượng cuộc sống. 

Thiếu vi chất dinh dưỡng là vấn đề sức khỏe cộng đồng và là vấn đề kinh tế xã hội quan trọng trên toàn thế giới. Theo Tổ chức Y tế thế giới ước tính trên thế giới có trên 2 tỉ người bị thiếu máu, gần 2 tỉ người thiếu iốt và 254 triệu trẻ em tuổi tiền học đường bị thiếu vitamin A. Có 779 triệu người bị thiếu máu, 624 triệu người bị thiếu iốt và 127 triệu trẻ em tuổi tiền học đường bị thiếu vitamin A ở các nước Đông Nam Á trong đó có Việt Nam. 

Trong thời gian qua mặc dù tình trạng dinh dưỡng người dân đã được cải thiện rất nhiều nhưng tình trạng thiếu vi chất dinh dưỡng, đặc biệt là thiếu vitamin A, sắt, và iốt cũng còn là vấn đề sức khỏe cộng đồng. Theo điều tra của Viện Dinh dưỡng Quốc gia năm 2009, tỷ lệ thiếu máu dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi là 29,2%, ở phụ nữ tuổi sinh đẻ là 28,8%, phụ nữ mang thai 36,5%; tỉ lệ thiếu vitamin A tiền lâm sàng ở trẻ dưới 5 tuổi toàn quốc là 12,3%. Tình trạng thiếu hụt iốt toàn quốc là 54,4%. 

Nguyên nhân chính của tình trạng thiếu hụt vi chất dinh dưỡng: 
  • Thiếu kiến thức đúng về vai trò, chức năng, tầm quan trọng của vi chất dinh dưỡng; 
  • Thực hành dinh dưỡng không hợp lý, vd: ăn không đa dạng thực phẩm, ít uống sữa;
  • Nhu cầu tăng vào các giai đoạn mang thai, cho con bú, trẻ em đang giai đoạn tăng trưởng nhưng cung cấp không đủ 
  • Mắc các bệnh lý nhiễm trùng, nhiễm lý sinh trùng làm tiêu hao nhiều vi chất dinh dưỡng. 
  • Mắc các bệnh lý ở đường tiêu hóa khiến quá trình hấp thu vi chất dinh dưỡng bị ảnh hưởng 
Có nhiều giải pháp can thiệp góp phần hạn chế tình trạng thiếu vi chất tại Việt Nam đã được triển khai trên tất cả các tỉnh thành như: 
  • Bổ sung vi chất dinh dưỡng dưới dạng thuốc. Theo các nghiên cứu khoa học cho thấy bổ sung vitamin A làm giảm 23% nguy cơ tử vong ở trẻ 6 – 5 tuổi. Từ 1988, Bộ Y tế đã triển khai Chương trình phòng chống thiếu vitamin A và bệnh khô mắt. Hoạt động chính là tổ chức Chiến dịch uống vitamin A liều cao đại trà 2 lần trong năm cho tất cả trẻ 6 – 36 tháng tuổi hoặc 6 – 59 tháng tuổi đối với các tỉnh thành khó khăn, vùng sâu vùng xa theo phác đồ của Tổ chức Y tế thế giới. Bên cạnh đó, chương trình còn bổ sung vitamin A liều cao cho bà mẹ ngay sau sinh. Tình trạng thiếu vitamin A đã cải thiện đáng kể, tỉ lệ thiếu vitamin A các thể lâm sàng đã hạ thấp dưới ngưỡng qui định của Tổ chức Y tế thế giới. Tuy nhiên, thiếu vitamin A thể tiền lâm sàng vẫn còn phổ biến. Vì vậy, bổ sung vitamin A cho các đối tượng nguy cơ cần được tiếp tục duy trì trong thời gian tới. Bổ sung viên sắt bằng đường uống cho phụ nữ mang thai và phụ nữ tuổi sinh đẻ cũng đã được triển khai, tỉ lệ thiếu máu trong cộng đồng có xu hướng giảm trong các năm qua nhưng vẫn có ý nghĩa sức khỏe cộng đồng ở mức trung bình. 
  • Bổ sung vi chất vào thực phẩm. Từ năm 1994, thực hiện Quyết định số 481/TTg ngày 8/9/1994 của Thủ tướng Chính phủ về việc tổ chức và vận động toàn dân sử dụng muối iốt, sau 10 năm triển khai chương trình, năm 2005, tình trạng thiếu iốt trong cộng đồng đã giảm đáng kể, tỉ lệ bướu cổ ở trẻ 8 – 10 tuổi từ 22,4% giảm còn 3,5%, tỉ lệ sử dụng muối iốt đạt 92,3%. Tuy nhiên, hiện nay, tình trạng thiếu iốt đang có xu hướng quay trở lại, tỉ lệ sử dụng muối iốt giảm đáng kể, nồng độ iốt niệu xuống thấp ở mức báo động. Ngoài ra, thói quen sử dụng gia vị mặn để chế biến thức ăn của người dân đã thay đổi, người dân thường xuyên dùng nước mắm, hạt nêm, bột canh trong chế biến thức ăn hàng ngày là một trong những nguyên nhân tác động đến mức iốt niệu thấp dưới mức phòng bệnh. Nghiên cứu công nghệ bổ sung iốt vào nước mắm, hạt nêm là nhiệm vụ ưu tiên cần thực hiện giúp cải thiện tình trạng thiếu iốt trong cộng đồng. Năm 2014, Trung tâm Dinh dưỡng đã nghiên cứu thành công công thức bổ sung iốt vào hạt nêm và đã được ứng dụng công nghệ vào sản xuất tạo ra sản phẩm cho thị trường giúp người dân lựa chọn sử dụng. Vitamin A cũng đã được nghiên cứu bổ sung vào trong đường, dầu ăn.
  • Đẩy mạnh truyền thông, cung cấp kiến thức về phòng chống thiếu vi chất cho người dân cần phải được thực hiện liên tục giúp người dân chủ động, biết cách lựa chọn thực phẩm giàu vi chất dinh dưỡng, đa dạng hóa bữa ăn, giữ gìn vệ sinh cá nhân và vệ sinh môi trường để nâng cao sức khỏe…
BS.CK2. Đỗ Thị Ngọc Diệp
Giám Đốc Trung tâm Dinh dưỡng TP.HCM




 

Các tin khác

  • Xử trí những rắc rối thường gặp trong giai đoạn điều trị bệnh ung thư