TIN TỨC TỪ SỞ Y TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

THƯ MỜI

THÔNG BÁO


Ngày đăng :   26/12/2019

Ngày đăng :   03/11/2019

Ngày đăng :   27/09/2019

VĂN BẢN


Ngày đăng :   16/12/2019

Ngày đăng :   01/12/2019

Ngày đăng :   16/11/2019

Đề tài nghiên cứu

Chỉ số no một số thực phẩm Việt Nam

Tóm tắt: Mục tiêu: Khảo sát chỉ số no (SI) của một số thực phẩm thông dụng Việt nam và mối tương quan của chỉ số no với mức tăng đường huyết và năng lượng ăn vào của bữa ăn tiếp theo.

     Phương pháp: Nghiên cứu lặp lại trên cùng một đối tượng, được chia làm 2 đợt (đợt một:11 đối tượng; đợt hai: 12 đối tượng, từ 18-40 tuổi, khỏe mạnh và 24 thực phẩm được chia ngẫu nhiên cho mỗi đợt. Mức độ no được đo trước và sau mỗi 15phút sau ăn thực phẩm khảo sát (≈ 240 kcal/ người) trong vòng 2giờ. Đo đường huyết trước và sau ăn 30’, 60’ và 120’. Sau đó các đối tượng được ăn bữa buffet tùy chọn. Lượng thực phẩm ăn trong ngày được ghi nhận bằng nhật ký ăn uống. SI được tính bằng tỷ số diện tích tăng lên dưới đường cong trong vòng 120phút của thực phẩm khảo sát so với bánh mì.

     Kết quả: Cùng một mức năng lượng 240kcal, các thực phẩm khác nhau có khả năng làm no khác nhau. So với bánh mì, nhóm trái cây có SI cao nhất (1.9 lần), nhóm thực phẩm giàu đạm (1.4 lần), thực phẩm giàu carbohydrate từ 0.77 – 1.3. SI tương quan nghịch với năng lượng ăn vào của bữa buffet (r = -0.21, p=0.0002) và năng lượng trong ngày (r = -0.13, p = 0.02). Thời gian ăn và khối lượng thực phẩm có tương quan yếu với SI (r = 0.19, p = 0.001; r =0.15, p=0.008) và tương quan nghịch với năng lượng ăn vào bữa buffet (r = -0.26, p < 0.0001; r = -0.16, p < 0.005). Mức tăng đường huyết của thực phẩm giàu chất đạm thấp (<0.3 so với bánh mì). Không tìm thấy mối tương quan giữa mức tăng đường huyết với SI.

     Kết luận: Kết quả nghiên cứu cho thấy chỉ số no của các thực phẩm thông dụng Việt nam, có thể làm cơ sở cho việc lựa chọn thực phẩm cho nhóm bệnh liên quan đến dinh dưỡng, đặc biệt là béo phì và đái tháo đường. 

Abstract

SATIETY INDEX OF VIETNAMES COMMON FOODS

     Objective: To determine the satiety index (SI) of some Vietnamess common foods and the correlation of the satiety index and changes in blood glucose with subsequent ad libitum food intake.

     Methods: A within – subject, repeated mearsure study was performed in 23 healthy subjects (age: 18-40y). The study was splited to courses (1rst course: 11 subjects, 2nd course: 12 subjects). Twenty four tested foods was randomly devided into 2 courses. Satiety rating and blood glucose were collected befor having test foods as baseline ( 240kcal/serving for subject) and every 15 minutes after having test foods in 120 minutes. Blood glucose was collected at 30’, 60’ and 120’. Then subjects were provided an ad libitum meal (buffet-style). The food intake in subsequent the rest of the day were also collected in each subject by food diary. A satiety index score was calculated by deviding the satiety increametal area under the 120-min satiety response curve (iAUC) of each tested food by  the satiety iAUC for the bread (as a standard food).

     Result: With the same amount of calorie (240kcal), the different foods provided a different SI. On average, the fruits group has higher SI (approximately 1.9 times more than white bread) and the protein - rich foods are 1.4 times. A satiety capacity of carbohydrate – rich foods is 0.85 – 1.3 of the bread. Mean SI were inversely corelated with energy intake in buffet meal (r = -0.21, p=0.0002) and energy intake of rest of the day (r = -0.13, p = 0.02). Time for having tested foods and amount of tested foods  positively corelated with SI (r = 0.19, p = 0.001; r =0.15, p=0.008, respectively) and inversely corelated with energy intake in buffet meal (r = -0.26, p < 0.0001; r = -0.16, p < 0.005). Changes in blood glucose concentration given by eating protein rich foods is less than those eating bread (approximately 30%). No significant corelations between changes in blood glucose concentrations and SI  were found.

     Conclusion: The first study on SI of common Vietnamese food indicated that different food groups provided different satiety index. Using the SI to select appropriate food for healthy diet should be educated widely 

Tác giả: Tạ Thị Lan, Trần Bích Vân, Lê Nguyễn Trung Đức Sơn, 

Nguyễn Thanh Danh, Lê Thị Kim Quí, Đỗ Thị Ngọc Diệp.

Trung tâm Dinh dưỡng TPHCM 

 

Các tin khác